Đề kiểm tra Học kì 1 Tiếng Việt lớp 4 có đáp án (Đề 11)
-
4536 lượt thi
-
18 câu hỏi
-
45 phút
Danh sách câu hỏi
Câu 1:
Đọc thành tiếng và trả lời câu hỏi.
Văn hay chữ tốt - Trang 129 – SGK Tiếng Việt 4 (T1).
Câu hỏi: Em hãy nêu ý nghĩa của bài đọc?- Học sinh đọc to, rõ ràng.
- Trả lời câu hỏi: Ý nghĩa của bài đọc: Bài đọc đã cho ta bài học về lòng kiên trì, quyết tâm thì sẽ đạt được thành công. Cao Bá Quát là một tấm gương sáng về lòng kiên trì, khổ luyện thành tài. Dù ban đầu thất bại nhưng bằng sự quyết tâm, nỗ lực không ngừng, cùng với phương pháp học tập tốt, ông đã có được thành công. Trong cuộc sống, dù có gặp khó khăn thì cũng đừng nản chí, hãy kiên trì, cố gắng từng bước, sớm muộn gì thành công cũng sẽ đến với chúng ta.
Câu 2:
Tuổi ngựa – “Từ đầu đến ... gió trăm liền.”
Trang 149 – SGK Tiếng Việt 4 (T1).
Câu hỏi: Bạn nhỏ tuổi gì? Mẹ bảo tuổi ấy tính nết thế nào?- Học sinh đọc to, rõ ràng.
- Trả lời câu hỏi:
+ Bạn nhỏ tuổi ngựa.
+ Mẹ bảo tuổi ấy tính nết hay đi, là "tuổi đi" vì "Ngựa không yên một chỗ".
Câu 3:
Đọc thầm và trả lời câu hỏi.
Đánh tam cúc
Ấy là lúc mọi công việc bề bộn đã xong. Tết đã qua được một ngày. Bánh chưng, chè kho, cỗ bàn, quần áo, đi chúc Tết,... tất cả đã đâu vào đấy một cách vui vẻ. Bây giờ, dưới ánh đèn phấn ấm cúng, trên chiếc ổ rơm còn thơm mùi lúa đồng, trong khói nhang thơm ngát, chị tôi mới bóc cỗ tam cúc còn mới ra và nói: Nào...
Bao giờ cũng thế, chị ngồi một góc ổ rơm, tôi ngồi ghé bên cạnh để được lây cái hương thơm từ người chị, tóc chị tỏa ra mùi bồ kết, mùi nước lá mùi già, mùi xà phòng thơm thoảng từ tấm áo phin nõn trắng tinh chị chỉ mặc trong ba ngày Tết... và thứ hương gì mà tôi không hiểu nổi, chỉ biết từ đôi vai tròn của chị, từ cái miệng tươi như hoa...
Con tượng vàng béo múp. Con mã điều hơi giống con dê. Con tốt đỏ đi đất, đầu đội nón dấu, tay cầm giáo. Con pháo cong cong. Con xe có hình hộp... Con chui sấp, con lật ngửa... Tiếng gọi một, gọi đôi, lúc tứ tử trình làng...Mỗi lúc được ăn “kết”, chị lại ôm choàng lấy tôi mà cười, không khí lại càng thêm vui vẻ. Lại có lúc “cả làng" cười phá lên vì tưởng bà bị ... té re... làm cho ba gian nhà như mở hội, và hương vị Tết càng nồng ấm, đúng là vui như Tết, mặc cho ngoài trời tối đen như mực, thỉnh thoảng vang kí cốp tiếng guốc ai về muộn.
Tiền đánh tam cúc chỉ là mấy que tăm hoặc mấy que diêm, có khi là mấy cùi cau khô long hạt, vậy mà mọi người say mê lạ. Càng chơi má chị tôi càng hồng lên. Có lẽ vì hơi ấm của ổ rơm, của ánh đèn, của khói nhung, của tiếng cười, của mùa xuân, của ánh mắt ai nhìn trộm... làm chị xao xuyến một điều gì...
Tết qua đi, ổ rơm dẹp lại. Chị cho tôi cỗ bài còn mới. Bọn trẻ con chúng tôi cũng đánh tam cúc, mặc dầu mỗi ngày nó thiếu dần đi một vài cây, đánh lung tung, gọi lung tung, chẳng biết đứa nào được, đứa nào thua, vẫn vui dù không thể bằng tết, có chị tôi bên cạnh.
Tôi đã mong biết bao nhiêu lại đến Tết sang năm, chờ chị tôi đến tối mùng một, giở cỗ bài mới không biết chị mua từ lúc nào, và nói: Nào...
(Theo Băng Sơn)
Dựa vào nội dung bài đọc trên, khoanh tròn vào chữ cái đặt trước câu trả lời đúng nhất hoặc làm theo yêu cầu của mỗi câu hỏi.
Trong câu chuyện, cậu bé và chị gái đánh tam cúc vào thời gian nào?Đáp án: C. Vào tối mùng một Tết.
Câu 4:
Đáp án: B. Vì lúc đó mọi công việc bề bộn của ngày Tết đã xong.
Câu 5:
Câu 6:
Câu 7:
Câu 8:
Câu 9:
Câu 10:
a) Con tốt đỏ đi đất, đầu đội nón dấu, tay cầm giáo. Con pháo cong cong.
a) Con tốt đỏ đi đất, đầu đội nón dấu, tay cầm giáo. Con pháo cong cong.
DT TT ĐT DT DT TT
Câu 11:
b) Càng chơi má chị tôi càng hồng lên.
ĐT DT TT
Câu 13:
Đặt câu hỏi cho bộ phận câu được in đậm dưới đây?
a) Con tượng vàng béo múp míp.a) Con tượng vàng như thế nào?
Câu 14:
b) Mỗi lúc được ăn “kết”, chị lại ôm choàng lấy tôi mà cười, không khí lại càng thêm vui vẻ.
b) Khi nào chị lại ôm choàng lấy tôi mà cười, không khí lại càng thêm vui vẻ?
Câu 15:
c) Bao giờ cũng thế, chị ngồi ở một góc ổ rơm.
c) Bao giờ cũng thế, chị ngồi ở đâu?
Câu 16:
d) Tiền đánh tam cúc là gì?
Câu 18:
Tập làm văn: Em hãy kể lại câu chuyện “Vua tàu thủy" Bạch Thái Bưởi bằng lời của một chủ tàu người Pháp hoặc người Hoa.
Xin chào các bạn, tôi là là một chủ tàu người Pháp sống cùng thời kỳ với ông Bạch Thái Bưởi – người Việt Nam. Tôi rất khâm phục ý chí và nghị lực của ông Bạch Thái Bưởi. Sau đây, tôi xin kể câu chuyện về ông.
Ông Bưởi mồ côi cha từ bé, nhà ông rất nghèo nên phải theo mẹ đi bán hàng rong. Người nhà họ Bạch ở Trung Quốc thấy ông khôi ngô, rồi nhận ông về làm con nuôi và cho ăn học. Đến năm ông 21 tuổi, ông làm thư ký cho một hãng buôn có danh tiếng. Rồi ông đã đứng ra kinh doanh tự lập, buôn đủ mọi thứ: buôn gỗ, ngô, mở hiệu cầm đồ…Có lúc sạt nghiệp, ông Bưởi vẫn không nản chí. Ông mở công ty vận tải đường thuỷ vào đúng lúc con tàu của người Hoa và người Pháp chúng tôi đã độc chiếm những đường sông miền Bắc. Rồi ông Bưởi cho người đến những bến tàu để diễn thuyết. Trên mỗi chiếc tàu, ông dán dòng chữ “Người ta thì đi thuyền ta” và treo một cái ống để vị khách nào đông tình với ông thì vui lòng bỏ ống tiếp sức cho ông. Khi cho bỏ ống, tiền đồng rất nhiều, tiền hào, tiền xu thì vô kể. Khách đi tàu của ông rất là đông. Nhiều chủ tàu người Pháp và người Hoa phải bán tàu lại cho ông. Rồi ông Bưởi mua xưởng chữa tàu, thuê kỹ sư giỏi trông nom. Lúc rất thịnh vượng, công ty của ông Bưởi có 30 cái tàu lớn nhỏ mang nhiều cái tên lịch sử: Hồng Bàng, Lạc Long, Trưng Trắc… Chỉ trong mười năm, ông đã trở thành “bậc anh hùng kinh tế” như những đánh giá của những người cùng thời chúng tôi.
Câu chuyện về “Vua tàu thuỷ” Bạch Thái Bưởi là như thế. Từ một cậu bé nghèo khổ, sau mười năm gian khổ lập nghiệp, ông đã trở thành anh hùng trên mặt trận kinh tế. Nghị lực phấn đấu, lòng yêu nước và tài năng kinh doanh của ông đã đưa ông tới thành công. Đó là những điều mà tôi vô cùng kính phục ông.